Chương 17: CƠ ĐỐC NHÂN VÀ XÃ HỘI

Bình An Trong Thượng Đế

Đăng vào: 5 tháng trước

.

Chương 17: CƠ ĐỐC NHÂN VÀ XÃ HỘI

Hãy làm cho người khác điều các con muốn người ta làm cho mình!

LuLc 6:31

TỪ khi quyết định theo Chúa Giê-xu và bắt đầu học Kinh Thánh, tự bạn thấy mình phải đương đầu với nhiều trách nhiệm và vấn đề xã hội khác nhau. Bạn đã làm hòa với Thượng Đế. Bạn không còn chiến đấu và nghịch thù với Ngài nữa. Tội lỗi đã được tha thứ. Bạn có những chân trời mới cho suy tư của mình – những viễn ảnh mới cho đời sống mình. Cả thế giới đã thay đổi. Bây giờ bạn bắt đầu nhìn những người khác qua nhãn quan của Chúa Giê-xu. Những ý kiến và lý tưởng cũ đã thay đổi. Những thành kiến bạn có trước kia đã bắt đầu biến dạng, lòng vị kỷ vốn là đặc tính của bạn trên nhiều lãnh vực trong đời sống mình bây giờ không còn nữa. Bỗng nhiên bạn hiểu ra câu chuyện ngắn ngủi sau: Có người hỏi: “Tôi là người ûi“giữ em tôi sao?” Và câu trả lời là: “Không, tôi là anh của em tôi”.

Nhiều người đã từ chối đời sống Cơ Đốc vì nó đã bị trình bày trên bình diện tiêu cực thay vì tích cực. Họ nói rằng tác phong Cơ Đốc nhân chống tất cả những gì vui thú và có lợi. Họ nói người Cơ Đốc giống như người đàn bà than phiền mọi việc đáng làm trên đời này đều là vô đạo đức và bất hợp pháp!

Trái với sự tin tưởng của thế gian, một Cơ Đốc nhân chân chính không có nghĩa là từ bỏ mọi thú vui thật sự. Chỉ có thú vui tội lỗi không đến từ Thượng Đế. Sự chấp nhận trọn vẹn Chúa Cứu Thế và lòng cương quyết để ý chỉ Thượng Đế dẫn dắt hầu như tức khắc sẽ đem bạn đến nguồn gốc của niềm vui chân chính nhất, đó là sự thông công với Chúa Cứu Thế. Nếu bạn là người chưa được sanh lại, điều này có vẻ như một tiếng khóc, rất cách xa sự vui thú, nhưng những ai thật sự đã từng trải mối thông công với Chúa Cứu Thế hàng ngày đều biết rằng điều này vượt tất cả những sinh hoạt của thế trần.

Trong bài giới thiệu tuyển tập George Macdonald, C. S. Lewis viết: “Dường như ông là một… tay chơi, biết tán thưởng sâu sắc tất cả những gì thật sự đẹp đẽ mà tiền bạc có thể mua được cũng như những gì không thể mua được bằng tiền”.

Chính George MacDonald đã viết: “Tôi ao ước nếu có thể được thì luôn luôn có một lò sưởi cháy rực vào mùa đông, một bình hoa vào mùa hè chào đón mình. Bằng không, hãy để cho tôi tưởng tượng chúng tốt lành như thế nào, và sau đó tôi vùi đầu vào công việc. Tôi không nghĩ rằng hài lòng là khinh thường điều ta không có”.

Chính tác giả Thi-thiên đã viết: “Họ nhờ sự dư dật của nhà Chúa mà được thỏa nguyện; Chúa sẽ cho họ uống nước sông phước lạc của Chúa” (Thi Tv 36:8). Thượng Đế cũng đã phán: “Ngài sẽ chẳng từ chối điều tốt lành gì cho ai ăn ở ngay thẳng” (84:11). Phao-lô nói rằng: “Con hãy khuyên bảo người giàu có ở đời này: đừng kiêu ngạo và tin tưởng nơi tiền của không bền lâu, nhưng phải đặt hy vọng nơi Thượng Đế, Đấng rộng rãi ban mọi vật cho chúng ta được hưởng” (ITi1Tm 6:17).

Sự kiện chúng ta thông công hằng ngày với Chúa Cứu Thế phải giúp chúng ta sống cách thực tế. Lối sống theo Chúa Cứu Thế không bắt buộc người ta phải chối bỏ tất cả những quyền lợi hay cao vọng nào. Mặc dù Kinh Thánh dạy rằng Chúa Cứu Thế có thể trở lại bất cứ lúc nào, Kinh Thánh cũng khích lệ chúng ta tiếp tục làm việc như thường lệ đến khi Ngài trở lại.

Ví dụ, không có gì sai quấy cả trong việc ăn uống, dựng vợ gả chồng trong thời đại Nô-ê, ngoại trừ các sinh hoạt đó đã bị băng hoại thành những sự lạm dụng tội lỗi (LuLc 17:26). Cũng không có điều gì sai lầm trong việc mua bán, trù hoạch và xây cất trong thời đại của Lót, ngoại trừ các sinh hoạt đó đã được theo đuổi bằng những phương pháp tội lỗi (LuLc 17:28). Điều sai lầm quan trọng trong thời Nô-ê và Lót là người ta khiến cho những sinh hoạt vừa nói trở thành mục tiêu duy nhất của đời sống mình. Họ không nghĩ gì khác hơn là những vui thú cá nhân, tài sản cá nhân và những quyền lợi vật chất họ đã góp nhặt. Họ đã trở thành những kẻ quá mê say với những điều thuộc đời này nên không dành thì giờ cho Thượng Đế. Điều này không đẹp ý Ngài và Thượng Đế đã đem sự đoán phạt đến cho những kẻ chống nghịch Ngài.

Có người nói: “Kinh Thánh không phải được viết ra để khuyến khích người ta chú trọng đến những công việc của thế gian này. Kinh Thánh giả định rằng người ta đã chú trọng quá mức lợi quyền thế gian. Kinh Thánh nhằm mục đích khuyến khích con người nhìn vào những công việc trần thế theo quan điểm những vấn đề thuộc linh có tầm quan trọng và giá trị lớn lao hơn”.

Kinh Thánh dạy rằng chúng ta phải thi hành những công việc hằng ngày và phải hãnh diện trong sự làm trọn những công việc đó một cách tốt đẹp. Chúng ta sinh ra trên đời này để làm một công việc nào đó, và những ai đòi xưng rằng họ là người Cơ Đốc đều được dạy dỗ để không những chỉ làm việc mà phải làm việc hết sức mình.

Kinh Thánh ca ngợi Bết-sa-lê-ên là thợ kim khí, thợ đá và thợ mộc tài ba “Ta đã làm cho người đầy dẫy Thần của Thượng Đế, sự khôn ngoan, sự thông sáng và mọi sự hiểu biết để làm mọi thứ nghề thợ, đặng bày ra và chế tạo đồ vàng, bạc và đồng đặng khắc và khảm ngọc, đẽo gỗ và làm được mọi thứ nghề thợ” (XuXh 31:3-5). Gia-cốp và các con làm nghề chăn chiên. Giô-sép làm thủ tướng. Đa-ni-ên là một chính khách. Cả Giô-sép và Chúa Giê-xu đều làm thợ mộc và một số môn đồ là ngư phủ. Chúng ta được nghe kể về hoạn quan xứ Ê-thi-ô-bi coi giữ kho tàng cho nữ vương Can-đác; Ly-đi, buôn bán hàng sắc tía; Phao-lô, Bê-rít-sin, và A-qui-la làm nghề may lều trại; Lưu-ca làm y sĩ.

Chắc chắn lý tưởng Cơ Đốc không đòi hỏi con người phải chối bỏ mọi quyền lợi trong các sinh họat thuộc đời sống này; nhưng chỉ cần con người tìm kiếm sự hướng dẫn của Thượng Đế để làm trọn công việc hằng ngày với tất cả khả năng mình và bất cứ lúc nào cũng giữ cho cả công việc lẫn ước vọng của mình thuận phục Chúa, . Do đó, Chúa Cứu Thế hứa ban cho sự trợ giúp thiết thực trong đời sống hằng ngày của chúng ta trên mặt đất này. Ngài giúp đỡ chúng ta trong công việc và chúc phước cho chúng ta trong sự vui thú của chúng ta.

Trong một bài khảo luận lý thú F. W. Boreham, trích dẫn sách Ê-sai, kể lại bác phó mộc ở Na-xa-rét đã khích lệ các thợ vàng trải qua mọi thời đại như thế nào. Chúa Giê-xu đã tạo cảm hứng cho các nhà văn, các họa sĩ, nhạc sĩ, điêu khắc gia lừng danh nhất, vốn cùng được Ngài soi sáng cho.

Ngài cũng giúp đỡ chúng ta để đương đầu với những vấn đề xã hội và thường chính ở điểm này chúng ta rối trí. Vì chính do các công việc hằng ngày và cách chúng ta đối phó với những vấn đề xã hội chung quanh mà thế gian nhìn biết Chúa Cứu Thế trong chúng ta.

Như nhạc phụ tôi, cố tiến sĩ L. Nelson Bell đã có lần viết trong tờ ‘Nhật báo của Giáo hội Trưởng lão miền Nam’: “Nếu bạn đi nhà thờ vào ngày Chúa Nhật, người ta có thể ức đoán rằng bạn là một Cơ Đốc nhân. Nhưng còn những người mà bạn có dịp tiếp xúc trong suốt tuần ở ngoài đường, trong sở, trong cửa hiệu và nhiều nơi khác thì sao?” Nghề nghiệp của Cơ Đốc nhân chân chính góp phần vào điều đó. Sự tham gia và dự phần tích cực vào chương trình và những sinh hoạt của Hội Thánh là điều không thể tránh được trong đời sống Cơ Đốc. Nhưng như tất cả chúng ta đều biết, sự mưu sinh, những trách nhiệm với gia đình, những công việc thường ngày, tất cả phối hợp lại để thử nghiệm bản chất thật của từng trải và đức tin Cơ đốc của chúng ta. Người khác sẽ thấy gì trong những cuộc tiếp xúc hằng ngày đó? Những bạn đồng sự của chúng ta trong tuần có nói rằng chúng ta là người Cơ đốc không? Có điều gì trong chúng ta gợi cho những người tình cờ quen biết, một ý nghĩ là chúng ta khác với những người không biết Chúa Cứu Thế không? Dĩ nhiên trắc nghiệm thật sự về đức tin Cơ Đốc phải tìm thấy trong đời sống hằng ngày của chúng ta.

“Thực tại của sự xưng nhận đức tin Cơ Đốc của chúng ta được bày tỏ bằng nhiều cách: trong những điều chúng ta nói cũng như những điều chúng ta không nói; trong những điều chúng ta làm cũng như những điều chúng ta không làm. Mặc dù Cơ Đốc giáo chính yếu không phải là một vấn đề ngoại tại, nó vẫn có tính cách gây ấn tượng trong sự đối thoại, trong các thói quen, trong sự giải trí, quan tâm, và những khát vọng được ghi nhận trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Liệu cuộc đối thoại của chúng ta có tôn vinh Chúa Cứu Thế không? Liệu những thói quen của chúng ta có phải là những thói quen Ngài chấp nhận không? Những nguồn giải trí của chúng ta có phải là những thứ tiêu khiển mà Ngài có thể tham dự không? Chúng ta có cúi đầu dâng lời tạ ơn khi dùng bữa ở một nơi công cộng không? Để ý sự chú trọng của chúng ta đối với những điều vật chất, liệu người ta có thể phát biểu rằng chúng ta yêu thích những điều cao thượng hay là chúng ta quá quan tâm chính yếu đến thế gian này? Liệu người ta có nhìn thấy nơi chúng ta một tham vọng để đạt đến một địa vị không xứng hợp với địa vị một Cơ Đốc nhân không? Chúng ta phải tự hỏi những điều này và nhiều điều khác nữa vì do những điều đó mà người ta phán đoán để biết chúng ta có phải là Cơ Đốc nhân hay không”.

Thái độ của chúng ta đối với vấn đề kỳ thị chủng tộc như thế nào? Thái độ chúng ta đối với vấn đề tính dục ra sao? Đối với mối tương quan chủ thợ? Thái độ của chúng ta như thế nào đối với vấn đề phá thai, nếp sống tình dục lệch lạc, lạm dụng ma túy, rượu và những vấn đề liên hệ với chúng? Tất cả những điều này rất thật và rất thực tế cần phải được trả lời, giải thích và thực hành trước mặt đồng loại chúng ta.

Nguyên tắc chỉ đạo trong sự giao thiệp của chúng ta với thế gian phải là “Hãy làm cho người khác điều các con muốn người ta làm cho mình!” (LuLc 6:31).

Nhiều người đã công kích “Phúc âm xã hội”, nhưng Chúa Giê-xu dạy chúng ta phải truyền giảng Phúc Âm cho thế gian. Thật ra chẳng hề có một “Phúc Âm xã hội” nào cả. Đó là một cái tên đặt sai. Chỉ có một Phúc âm duy nhất: “Nếu ai truyền giảng cho anh em một Phúc Âm nào khác… Người ấy đáng bị Thượng Đế lên án” (GaGl 1:9). Đồng thời chúng ta cũng được truyền dạy trong ITi1Tm 5:8 “Ai không săn sóc bà con thân thuộc, nhất là gia đình mình, là người chối bỏ đức tin, còn xấu hơn người không tin Chúa”. Chính phủ sẽ đỡ được bao nhiêu gánh nặng nếu các Cơ Đốc nhân đều chịu trách nhiệm về nhu cầu của người nhà mình.

Chén nước lạnh đến ‘sau’ và lắm khi là ‘trước’, chớ không phải là để ‘thay thế’cho Phúc Âm. Hơn ai khác, Cơ Đốc nhân phải quan tâm đến các vấn đề xã hội và các bất công xã hội. Trải qua các thế kỷ, Hội thánh đã đóng góp nhiều hơn bất kỳ một tổ chức nào khác, nhằm nâng cao tiêu chuẩn xã hội lên những đỉnh cao mới. Bắt trẻ con lao động đã bị đặt ngoài vòng pháp luật, chế độ nô lệ đã bị hủy bỏ tại Anh quốc, Hoa-kỳ và vài nơi khác trên thế giới. Cương vị phụ nữ đã được nâng lên những độ cao chưa từng thấy trong lịch sử và nhiều sự cải cách khác đã được thực hiện do ảnh hưởng của những lời dạy của Chúa Giê-xu. Người Cơ Đốc phải dành lấy địa vị mình trong xã hội với lòng can đảm để bênh vực những gì tốt, đúng và đáng trọng.

Phải là một công dân tốt.

Thứ nhất: Người Cơ Đốc phải là một công dân tốt. Kinh Thánh dạy rằng người Cơ Đốc phải tuân theo luật pháp. Kinh Thánh cũng dạy phải trung thành với quốc gia. Sự trung thành với quốc gia và lòng yêu nước không có nghĩa là chúng ta không thể công kích một số luật lệ bất công có thể gây ra sự kỳ thị giữa những tập thể đặc biệt. Thượng Đế không thiên vị người nào. Mọi người phải có những cơ hội bình đẳng. Chính quyền gương mẫu cho chúng ta là chính quyền của Thượng Đế.

Kinh Thánh cũng dạy rằng chúng ta phải hợp tác với chính quyền. Sứ đồ Phao-lô khuyên Ti-mộ-thư: “… Khẩn nguyện, cầu xin, cầu thay cho mọi người, cho Nhà nước, cho các cấp lãnh đạo… ” (2:1, 2). Người ta hỏi Chúa Giê-xu: “Đóng thuế có phải là một việc làm hợp pháp không?” Ngài đã làm gương lưu đời bằng cách đóng thuế. Điều khiển chánh quyền, duy trì trật tự đều phải có tiền. Người trốn thuế là ký sinh trùng đứng về phương diện công dân và là một kẻ ăn trộm thực sự. Không có Cơ Đốc nhân chân chính nào là người trốn thuế. Chúa Giê-xu phán rằng chúng ta phải “Hãy nộp cho Hoàng đế những gì của Hoàng đế, và trả lại Thượng Đế những gì thuộc về Ngài!” (Mac Mc 12:17). Chúng ta không phải chỉ là những người đóng thuế. Chỉ tuân hành luật pháp thôi cũng chưa đủ. Chúng ta phải mưu cầu và hành động vì lợi ích quốc gia. Có khi chúng ta được kêu gọi để hiến thân vì nước. Chúng ta phải vui vẻ làm những điều này – như làm cho Thượng Đế. Chúng ta phải tận tâm trong công việc mình như những công dân tốt.

Chúng ta phải có lòng bác ái và góp phần vào những tổ chức từ thiện đang làm điều tốt đẹp để cải tiến nhân loại. Chúng ta nên tham gia các hoạt động cứu trợ và xây dựng đầy thiện tâm.

Cơ Đốc nhân phải chú ý đến các cô nhi viện, bệnh viện, nhà dưỡng lão, nhà tù và những cơ sở xã hội khác. Chúa Giê-xu phán: “Điều răn thứ nhì cũng giống như thế: Phải yêu thương người đồng loại như chính bản thân!” (Mat Mt 22:39). Hãy tưởng tượng một nước không có lấy một cơ quan từ thiện nào hết! Chắc không ai muốn sống tại nước ấy cả.

Tôi nhớ có đến thăm một xứ trong đó có các nhà dưỡng lão của cả chính phủ lẫn của tổ chức Cơ Đốc giáo. Trong nhà dưỡng lão của Cơ Đốc giáo chúng tôi thấy tình yêu thương đang hành động, còn trong nhà dưỡng lão của chính phủ người ta chỉ làm việc một cách lạnh lùng, chiếu lệ. Vị bác sĩ làm việc cho cả hai nhà dưỡng lão ấy cho biết những người sống trong nhà dưỡng lão của Cơ Đốc giáo chẳng những hạnh phúc hơn mà còn sống lâu hơn. Chúng ta phải dự phần vào trong cộng đồng. Những ai có trách nhiệm phải được kính trọng, ủng hộ và hợp tác. “Mọi người phải vâng phục chính quyền vì chẳng có chính quyền nào không do Thượng Đế thiết lập” (RoRm 13:1).

Phải hiếu khách.

Thứ nhì: người Cơ Đốc phải hiếu khách (ITi1Tm 3:2). Kinh Thánh dạy rằng nhà chúng ta phải rộng mở đối với mọi người và những người vào ra trong gia đình chúng ta phải cảm biết được sự hiện diện của Chúa Cứu Thế. Điều gì Thượng Đế ban cho chúng ta phải chia xẻ với những người khác. Làm được như vậy, Thượng Đế sẽ ban ân phước và thịnh vượng cho gia đình chúng ta.

Một quan điểm đúng đắn về tính dục.

Thứ ba: Chúng ta phải có thái độ Cơ Đốc đối với vấn đề tính dục. Không chỗ nào trong Kinh Thánh dạy rằng tính dục là một tội lỗi, mặc dù nhiều nhà bình giải Kinh Thánh cố gắng trình bày tính dục như thế. Kinh Thánh dạy rằng sự sử dụng sai lầm tính dục là tội lỗi. Vì tính dục, một hành động nhờ đó tất cả sự sống trên quả đất này được sáng tạo, phải là một trong những từng trải kỳ diệu, ý nghĩa và thỏa vui của con người.

Tuy nhiên, con người với bản chất xấu xa và băng hoại, đã biến hành động yêu thương giữa hai con người vốn vinh quang toàn vẹn, thành một cái gì thấp hèn, rẻ tiền và dơ bẩn. Tính dục, nếu tước bỏ tình yêu, sự kính trọng hỗ tương và lòng mong muốn chân thành trao gởi niềm vui và sự trọn vẹn cho người khác phái, sẽ trở thành hành động của loài cầm thú mà thôi, và Kinh Thánh đã cảnh cáo chúng ta về điều này không mơ hồ một chút nào!

Điều quan trọng, Kinh Thánh là một trong những quyển sách trên thế giới đề cập rõ ràng nhất về vấn đề tính dục. Kinh Thánh không có thái độ ngăn cấm, không bào chữa cho tính dục là phải hay quấy. Thái độ tinh quái, bí mật, lúng túng, “tảng lờ như không có” đối với vấn đề tính dục hoàn toàn là sản phẩm của con người.

Để tìm cách loại bỏ phương cách bí mật, “chớ nên bàn đến” đối với tính dục, thì nền văn minh hiện tại của chúng ta lại nhấn mạnh quá mức tính chất máy móc của nó và rất ít để tâm đến hoàn cảnh thiêng liêng nguồn gốc của sự phát biểu tràn đầy tình yêu của loài người.

Tòa án xét xử về những vụ ly dị của chúng ta chứng tỏ con người đã bất lực bi thảm trong việc thực hiện mối tương giao tính dục lâu bền và tốt đẹp nếu không có một nền tảng vững chắc cho những giá trị thuộc linh.

Tính dục là một phần của đời sống mà chúng ta không thể hủy bỏ, mà dù có muốn đi nữa, vì không có nó mọi sự sống phải đình chỉ. Sử dụng đúng đắn, tính dục có thể biến gia đình thành Thiên đàng. Dùng sai, tính dục sẽ làm cho gia đình trở nên Địa ngục. Sử dụng tính dục cách khôn ngoan nó sẽ trở nên một kẻ hầu việc kỳ diệu. Nếu dùng sai lầm nó sẽ tác hại như một chủ nhân ông ghê gớm.

Những người Cơ Đốc lấy làm bất bình và bị xúc phạm khi vấn đề tính dục được nêu lên nhan nhãn trong lời tựa các báo, bị khai thác trong các quảng cáo và sử dụng như một lối câu khách rẻ tiền bên ngoài các rạp hát. Họ hổ thẹn vì đồng loại mình quá ngu muội, thô bỉ và trơ trẽn đến nỗi làm ô uế và bóp méo hành động nhờ đó mà muôn loài được Thượng Đế ban ơn.

Quan điểm Cơ Đốc giáo về hôn nhân.

Thứ tư: Diễn tiến tự nhiên là những ai chấp nhận quan điểm Cơ Đốc về tính dục sẽ chấp nhận quan điểm Cơ Đốc về hôn nhân. Trước khi bạn bước vào hôn nhân, hãy lưu tâm đến những ngụ ý thuộc linh thật sự làm cho một cuộc hôn nhân trần tục được gắn liền với thiên thượng. Trong quá trình trưởng thành, chúng ta dần dà học biết về tình yêu thương, trước hết đối với cha mẹ chúng ta và các thân hữu, và sau đó đối với một người sẽ phải chia xẻ cuộc đời với chúng ta. Chúng ta đã từng thấy quá trình này diễn tiến khó khăn như thế nào, vì theo tự nhiên chính sự thù ghét chớ không phải tình yêu thương đã đến với người có tội chưa được sanh lại.

Nhiều người đã gặp sự không may ghê gớm vì đã chọn lựa bạn đời mình trong khi vẫn còn ở trong những sự nhọc nhằn của thế gian, xác thịt và ma quỉ hoặc trong khi người bạn đời mà họ lựa chọn vẫn còn ở trong tình trạng hoàn toàn tội lỗi. Do đó, không có gì lạ khi có nhiều cuộc hôn nhân giữa hai linh hồn không hiểu gì về phần thiêng liêng, không có khả năng yêu thương thật sự và lâu bền, đã chấm dứt trước các pháp đình chuyên ly dị.

Hôn nhân là một mối dây liên kết thánh khiết vì giúp cho hai người giải quyết định mạng thuộc linh của mình. Thượng Đế đã tuyên bố hôn nhân là điều tốt đẹp, vì Ngài đã biết rằng người đàn ông cần một bạn đường giúp đỡ và người đàn bà cần một người che chở. Ngài đòi hỏi những người làm chồng và làm vợ không bao giờ được xao lãng mục đích nguyên thủy của hôn nhân. Vai trò của người vợ là yêu thương, giúp đỡ và khuyến khích chồng trong mọi trường hợp và người chồng có nhiệm vụ thương yêu, bảo vệ và nuôi dưỡng vợ con để gia đình tràn đầy sự bình an và hòa hợp của Thượng Đế. Họ phải thuận phục lẫn nhau, yêu thương nhau.

Những cuộc hôn nhân tạo dựng trong sự hiểu biết rõ ràng về mục đích và luật pháp của Thượng Đế không cần đến các tòa án ly dị. Hôn nhân nào thiếu lý tưởng đó trước hết nên tìm học để biết Thượng Đế mong gì ở người chồng và người vợ, rồi cầu nguyện để được Ngài dẫn dắt và giúp đỡ trong sự tuân giữ các điều răn Ngài.

Giải pháp của Cơ Đốc giáo về các vấn đề chủ thợ.

Thứ năm: Chúng ta phải có thái độ Cơ Đốc trong tương quan chủ thợ. Kinh Thánh phán: “Tôi tớ phải luôn luôn vâng phục chủ. Không phải chỉ lo làm đẹp lòng chủ khi có mặt, nhưng phục vụ với tấm lòng chân thành và tôn kính Chúa. Làm việc gì cũng nên tận tâm như làm cho Chúa chớ không phải cho người. Đừng quên Chúa sẽ tưởng thưởng anh em phần cơ nghiệp xứng đáng. Vì Chúa Cứu Thế mới là Chủ đích thực của anh em. Nếu anh em không tận tâm, Chúa sẽ báo trả, Ngài không hề thiên vị” (CoCl 3:22-25).

Nếu Chúa Cứu Thế chiếm ưu tiên trong mối tương quan chủ thợ sẽ không có một cuộc đình công nào hết. Sẽ không có những cuộc tranh chấp dằng dai giữa đôi bên mà không bên nào có thiện chí nhân nhượng. Chủ nhân sẽ đối xử với thợ thuyền một cách rộng lượng và thợ thuyền sẽ hăng hái làm việc xứng đáng với đồng lương – vì họ sẽ không những chỉ làm việc vì đồng lương mà còn làm việc cho Thượng Đế.

Kinh Thánh dạy rằng mọi công việc lương thiện đều có giá trị và người Cơ Đốc phải là người công nhân trung tín nhất, có thiện chí và hữu hiệu nhất trong tất cả. Tại hãng xưởng, người Cơ Đốc phải tỏ ra là một người mong muốn công lý; nhưng không luồn cúi để thủ lợi bất chính.

Cũng vậy, chủ nhân Cơ Đốc phải đối xử với thợ thuyền mình bằng sự quí trọng và độ lượng để làm gương cho những chủ nhân khác. Một người có các ý niệm Cơ Đốc thật sự không thể không lo lắng đến các biện pháp an toàn, các điều kiện làm việc tốt đẹp và sự an lạc của những người làm việc cho mình. Người Cơ Đốc sẽ không coi công nhân như những nhân lực nhưng coi họ như những con người.

Cả hai giới chủ nhân và thợ thuyền đều phải nhớ rằng các điều kiện cải tiến và sự thông cảm nhiều hơn mà họ được hưởng ngày nay vốn là kết quả của một sự phục hưng thuộc linh lớn lao. Các nghiệp đoàn xuất xứ từ Hội thánh và từ các tổ chức phục hưng mạnh mẽ của Wesley trong thế kỷ thứ mười tám. Sự tự do xã hội cho giới công nhân bắt đầu khi một lãnh tụ Cơ Đốc là Lord Shaftesbury, một người thuộc hàng quí tộc, bị gia đình chống đối mãnh liệt đã lãnh đạo cuộc đấu tranh, suốt đời vận động đòi những điều kiện làm việc được tốt đẹp hơn, bớt giờ làm việc, tăng lương, và sự đối xử tử tế với công nhân.

Nếu không có sự phục hưng thuộc linh của thế kỷ thứ mười tám, những thắng lợi do lao động thu đoạt đã không thực hiện được, hay có thể đã bị đình trệ rất lâu sau đó trong lịch sử chúng ta. Khi những lãnh tụ lao động đề cập đến việc đặt tôn giáo ra ngoài vòng pháp luật, không đếm xỉa đến Thượng Đế, Kinh Thánh và Hội thánh, họ nên nhớ luôn rằng những điều họ có ngày nay là do quyền năng của Phúc Âm Chúa Cứu Thế.

Một số lãnh tụ lao động đã trở thành xấc láo, kiêu căng, giàu có, tự mãn và ham mê quyền thế. Nhiều kỹ nghệ gia cũng vậy. Tất cả những người này phải tự hạ mình trước mặt Thượng Đế, tìm hiểu những nhu cầu của nhau, hoàn toàn nhờ cậy lẫn nhau; và trên hết, cố gắng áp dụng Luật Vàng trong tinh thần hết sức thực tế.

Quan điểm của Cơ Đốc giáo về chủng tộc.

Thứ sáu: người Cơ Đốc nhìn nhận vấn đề chủng tộc qua quan điểm của Chúa Cứu Thế và chấp nhận rằng Hội thánh đã thất bại trong sự giải quyết vấn đề lớn lao đó của nhân loại. Chúng ta đã để cho giới thể thao, các loại hình giải trí, quân đội, giáo dục và kỹ nghệ vượt qua chúng ta. Hội thánh phải là một người làm chuẩn. Hội thánh phải tình nguyện làm những gì các tòa án đang thực hiện bằng áp lực và cưỡng chế. Nhưng nói cho cùng, giải pháp duy nhất thật sự sẽ tìm được nơi chân thập tự giá khi chúng ta đến với nhau trong tình yêu thương huynh đệ. Dân chúng thuộc mọi chủng tộc càng đến gần Chúa Cứu Thế và thập giá Ngài bao nhiêu thì họ càng gần nhau bấy nhiêu.

Kinh Thánh chép rằng, trong Chúa Cứu Thế không có sự phân biệt dân Do-thái hay dân ngoại bang, không có đàn ông hay đàn bà, người Hy-lạp hay người dã man, người giàu hay người nghèo. Kinh Thánh bày tỏ rằng tất cả chúng ta đều là một trong Chúa Cứu Thế. Nơi chân thập tự giá mặt đất bằng phẳng. Khi Chúa Cứu Thế mở mắt thiêng liêng cho chúng ta, chúng ta không còn thấy màu da, giai cấp, điều kiện mà chỉ thấy những con người với những khát vọng, lo sợ, nhu cầu và mong ước của chính chúng ta. Chúng ta bắt đầu nhìn dân chúng qua đôi mắt của Thầy mình. Hãy kết bạn với nhau – hãy mời họ về nhà bạn.

Quan điểm của Cơ Đốc giáo về kinh tế.

Thứ bảy: Thái độ Cơ Đốc phải nổi bật trong vấn đề kinh tế. Chúa Giê-xu phán rằng đời sống của một người không nằm trong tài sản của người ấy. Tiền bạc là một tên nô lệ tốt nhưng lại là một chủ nhân xấu. Tài sản là để sử dụng, hưởng thụ, chia xẻ, bố thí, chớ không phải để giấu đi. Phao-lô dạy rằng tham tiền là “cội rễ mọi điều ác” (ITi1Tm 6:10). Của cải có nơi có chỗ và có quyền lực riêng, nhưng không được chiếm giữ ngôi vị hay ảnh hưởng đến uy quyền. Sự tham lam đặt tiền bạc lên trên tình người. Nó xiềng xích người ham mê và khiến họ trở thành nạn nhân. Nó làm cứng lòng và ngăn chặn những động lực cao đẹp và hủy diệt những phẩm chất thiết yếu của đời sống.

Hãy coi chừng sự tham lam trong mọi giai đoạn và hình thức! Tất cả chúng ta phải tự giữ mình tránh vấp phạm bằng sự cảnh giác, cầu nguyện, tự chế và kỷ luật. Đời sống không phải là vấn đề tiền bạc, nhà cửa, ruộng đất, khả năng kiếm ra tiền và thành tích tài chánh. Không thể dung túng cho sự tham lam biến con người thành nô lệ cho của cải.

Khi người ta nhờ Chúa Giê-xu dàn xếp cuộc tranh chấp gia tài giữa hai anh em, Ngài đã từ chối bằng một lời cảnh cáo và bằng một ví dụ thật hay. Ngài đã kể chuyện người chủ đất giàu có đang ở giữa thời kỳ thịnh vượng, ông ta có những viễn tượng về sự giàu có lớn lao hơn nên đã lập những kế hoạch dài hạn sẽ giúp cho cuộc sống mình được đầy đủ tiện nghi vật chất và vinh quang cá nhân mà ông ta hằng thiết tha ấp ủ. Rõ ràng đó là một người có tài, biết tiết kiệm, biết chịu khó, dè dặt, lương thiện và có đạo đức trong công việc làm ăn, nhưng lại là nạn nhân của lòng ham muốn và tư lợi cũng như nhiều người khác.

Ông đã đo lường sự thành công của mình bằng những cánh đồng, những vựa lúa đầy, và nuôi dưỡng linh hồn mình bằng những ảo mộng của loài người. Cuộc đời của ông ta bị tiền bạc bao bọc. Ông ta đã thiết lập các kế hoạch của mình, không nghĩ gì đến Thượng Đế hay đến sự bấp bênh của đời sống.

Nhưng Thượng Đế đã phán quyết lời cuối cùng và những dự định dài hạn đã bị cắt ngắn bởi cái chết đột ngột. Tài sản gom góp khó nhọc đã trôi tuột qua những ngón tay lạnh giá để bị phân chia, vung vãi và bị người khác phung phí trong khi chính ông ta đã phải đứng trước mặt Thượng Đế chẳng có gì để phô bày về đời sống mình trên thế gian.

Hơn ai hết, người Cơ Đốc phải nhận thức rằng chúng ta ra đời với hai bàn tay trắng – và chúng ta sẽ lìa đời với hai bàn tay không. Thật ra chúng ta chẳng sở hữu một cái gì cả – không tài sản và không ngôi thứ – suốt cả cuộc đời. Chính Thượng Đế sở hữu tất cả, và chúng ta chỉ là những người quản lý tài sản Ngài trong khoảng thời gian ngắn ngủi trên mặt đất. Mọi vật xung quanh mà chúng ta kể là tài sản của mình đó chỉ là những điều Thượng Đế cho mượn, và khi nào chúng ta không còn ý thức chân lý thấm nhuần này chúng ta trở nên tham lam và ham muốn.

Khi chúng ta nắm giữ một đồ vật hay một người nào, và nói “cái này của tôi”, khi chúng ta nhìn những gì người khác có với cặp mắt thèm muốn và dự định “chiếm cho kỳ được bằng mọi cách” là chúng ta đã quên rằng dù có chiếm được chúng, chúng ta cũng không thể mang chúng theo khi chúng ta phải tường trình lần cuối trước tòa phán xét.

Điều này không có nghĩa là những tài sản của thế gian tự nó là tội lỗi – Kinh Thánh không nói thế. Kinh Thánh trình bày rõ ràng rằng Thượng Đế mong đợi chúng ta cố gắng làm điều tốt nhất với tài ba, khả năng và hoàn cảnh sẵn có. Nhưng cũng như vấn đề tính dục, có một con đường phải và một con đường quấy để tạo nên tiền bạc; có một cách đúng và một cách sai để thực hiện quyền lực. Có rất nhiều Cơ Đốc nhân đã hiểu lầm điều này, họ đã mang một niềm hãnh diện thuộc linh rất tội lỗi và tai hại khi bị nghèo đói, khi phải khoanh tay chờ đợi và nói “Ý Chúa được nên” trong lúc con cái họ bị đau khổ và bỏ bê. Sứ đồ Phao-lô nói: “Ai không săn sóc bà con thân thuộc, nhất là gia đình mình, là người chối bỏ đức tin, còn xấu hơn người không tin Chúa” (5:8).

Chúa Giê-xu đã thuật một trong những ví dụ rõ ràng nhất của Ngài để minh chứng chính điểm này. Ngài kể chuyện người giàu giao cho mỗi người làm công của mình một số tiền để đầu tư khi ông ta đi vắng nơi một xứ xa. Lúc trở về, ông thấy một vài gia nhân khôn ngoan đã biết đầu tư nên tiền bạc sinh sôi nẩy nở, ông ca ngợi sự suy tính kỹ càng, tánh thận trọng của họ; nhưng đoán phạt gia nhân sợ hãi và thiếu sáng kiến không biết phải dùng tiền làm lợi gì đã đem cất giấu phòng kẻ trộm.

Hãy làm việc và nhận lãnh kết quả của công lao mình theo luật pháp của Thượng Đế và tiêu dùng nó để thực hiện những điều răn của Ngài. Hãy dâng hiến một phần mười cho Chúa. Hãy dâng hiến một phần mười “tài vật và hoa lợi đầu mùa” (ChCn 3:9) cách trung tín, vì Kinh Thánh chép làm như thế là đúng và công bình. Bất cứ lúc nào bạn thấy nghi ngờ về những giá trị vật chất, hãy mở Kinh Thánh ra và đọc điều Chúa Giê-xu dạy dỗ về tiền bạc, điều Ngài đã phán về cách kiếm tiền, cách sử dụng và phân phối tài sản. Hãy tự hỏi: “Trong trường hợp này, Chúa Giê-xu sẽ làm gì?” và hãy tự hướng dẫn bằng câu tự vấn đó và chỉ câu đó thôi.

Trong số các bạn thân của tôi, có một kỹ nghệ gia rất giàu có. Ngày nọ trong lúc cùng ăn trưa với nhau, ông ta điềm tĩnh báo với tôi rằng, hôm qua anh vừa bán được một sản phẩm trị giá 13 triệu Mỹ kim. Nhưng rồi thình lình anh ta đổi đề tài câu chuyện bằng cách reo lên một cách thích thú: “Nhưng xin anh hãy nghe điều tôi vừa mới khám phá được trong Kinh Thánh sáng hôm nay”. Đây quả thật là một con người biết dành quyền ưu tiên cho mọi việc theo đúng thứ tự của chúng.

Quan điểm của Cơ Đốc giáo về nhân loại đang đau khổ.

Thứ tám: Người Cơ Đốc phải lưu tâm đến nhân loại đau khổ quanh mình. Những khu xóm lụp xụp bẩn thỉu rộng lớn trong chính quốc gia bạn sống phải là một gánh nặng cho bạn. Sự nghèo nàn và đau khổ của hằng ngàn người trong khu vực bạn ở phải là mối lưu tâm của bạn. Bạn phải tham gia các tổ chức và hội đoàn để xoa dịu sự đau khổ của nhân loại quanh bạn. Nhiều người đã để quá nhiều thì giờ vào các công trình cao cả lại không đóng góp gì hết để giảm thiểu sự khổ đau hiển nhiên ở ngay tầm tay. Ai là người lân cận của chúng ta? Ấy là người ở gần chúng ta hơn hết. Có thể đó là vợ, là chồng, là con, hay những người ở sát cạnh nhà ta. Người lân cận là người ở gần chúng ta hơn hết – sau đó là ở trong thành phố, trong đất nước của chúng ta – sau nữa là khắp thế giới.

Kinh Thánh chép rằng dân chúng nghe Chúa Giê-xu phán một cách thích thú. Đi đến đâu Ngài cũng chữa bệnh cho người ốm, an ủi kẻ buồn rầu, và khuyến khích một cách thực tiễn. Người Cơ Đốc phải lưu tâm giúp đỡ, thiết lập và phát triển bệnh viện, cô nhi viện, nhà dưỡng lão, và những cơ sở từ thiện khác đang cố gắng giúp đỡ những người kém may mắn. Người Cơ đốc phải lưu tâm góp phần giúp đỡ chia xẻ sự giàu có của quốc gia mình cho những kẻ thiếu thốn tại các vùng khác trên thế giới. Người Cơ Đốc phải yểm trợ bất cứ cơ quan quốc gia hay quốc tế nào có mục đích giúp đỡ những người xấu số trên thế giới. Xin có một lời nhắc nhở ở đây. Khi nào chúng ta dâng tiền của Thượng Đế cho một tổ chức, với tư cách là những quản lý trung tín, chúng ta phải kiểm tra xem số tiền ấy đã được sử dụng như thế nào. Có nhiều tổ chức có trách nhiệm, nhiều công tác từ thiện xứng đáng được chúng ta ủng hộ và cầu nguyện cho – nhưng cũng có nhiều tổ chức khác mà chúng ta không nên ủng hộ.

Không có nơi nào trong Kinh Thánh dạy rằng chúng ta phải sống cuộc đời yếm thế. Trái lại, Kinh Thánh dạy hoàn toàn khác hẳn. Chúng ta phải hợp tác với những người đang thực hiện mục đích tốt đẹp là góp phần nâng đỡ người bất hạnh. Thượng Đế cần những cán bộ xã hội, bác sĩ, y tá, điều dưỡng, cán bộ từ thiện và nhiều loại người khác nữa có khả năng làm vơi bớt nỗi khổ của nhân loại.

Câu châm ngôn của Phù-Luân-Hội là “Phụng sự trước, cá nhân sau”. Phương châm của Câu Lạc Bộ Kiwanis là “Chúng tôi xây dựng”. Phương châm của Hội Lions là “Sự tự do, trí thông minh, sự an toàn của tổ quốc”. Tất cả những tư tưởng này đều bắt nguồn từ Cơ Đốc giáo. Tất cả những tổ chức này thật sự là phó sản của Cơ Đốc giáo mặc dù một số hội viên không phải là Cơ Đốc nhân. Hương thơm của Chúa Cứu Thế nằm trong mùi thơm của bất cứ công tác xã hội nào.

Tình yêu thương anh em.

Thứ chín: Người Cơ Đốc có một bổn phận đặc biệt đối với các Cơ Đốc nhân khác. Những người bạn Cơ Đốc đều thuộc về một tầng lớp đặc biệt. Chúng ta phải có một tình yêu siêu nhiên đối với họ. “Yêu thương anh em tín hữu chứng tỏ chúng ta đã thoát chết nơi hỏa ngục để hưởng sự sống vĩnh viễn” (IGi1Ga 3:14). Chúng ta phải yêu kẻ thù của chúng ta. Chúng ta cũng phải yêu cả những người bách hại và đặt điều nói xấu chúng ta nữa.

Nhưng điều lớn lao nhất trong tình yêu nhân loại của chúng ta là yêu thương Cơ Đốc nhân khác. Chúa Giê-xu phán: “Đây là mệnh lệnh: ta các con hãy yêu nhau như ta đã yêu các con” (GiGa 15:12).

Kinh Thánh dạy chúng ta phải phục vụ lẫn nhau: “Hãy lấy lòng yêu thương làm đầy tớ lẫn nhau”.

Xin Chúa hãy giúp con sống ngày này qua ngày khác. Bằng cách tự quên mình. Đến nỗi khi con quì gối nguyện cầu. Những lời cầu nguyện của con sẽ dành cho kẻ khác.

Hãy giúp con trong tất cả những việc con làm. Bao giờ cũng thành tâm và chân thật. Và ghi nhận rằng mọi điều con làm cho Chúa. Cũng cần phải làm cho người khác.

Người khác, Chúa ơi, phải, người khác. Nguyện điều này trở thành phương châm của con. Nguyện cho con sống vì người khác. Hầu cho con có thể sống như Ngài.

C. D. Meigs

Kinh Thánh chép rằng bổn phận chúng ta đối với nhau trong tư cách người Cơ Đốc là phải làm gương cho nhau. Phao-lô nói: “Đừng để ai khinh con vì trẻ tuổi, nhưng con phải làm gương cho các tín hữu trong lời nói, việc làm, tình thương, đức tin và tấm lòng trong sạch” (ITi1Tm 4:12). Đây không phải là lời đề nghị – mà là một mệnh lệnh! Đây không phải là lời khuyến cáo mà là bổn phận. Chúng ta phải là những người Cơ Đốc gương mẫu.

Kinh Thánh cũng dạy chúng ta phải tha thứ nhau “Phải có lòng nhân từ, yêu mến nhau, phải tha thứ nhau như Thượng Đế đã tha thứ anh em trong Chúa Cứu Thế” (Eph Ep 4:32). Chúa Giê-xu phán rằng nếu bạn không tha thứ thì Cha bạn ở trên trời sẽ không tha thứ tội lỗi cho bạn. Ngài cũng phán: “Khi các con cầu nguyện, nếu có điều bất bình với ai, hãy tha thứ, để Cha các con trên trời tha lỗi các con” (Mac Mc 11:25).

Là Cơ Đốc nhân, chúng ta được dạy dỗ là không nên xét đoán lẫn nhau, và tốt hơn là quyết định không bao giờ ngăn đường cản lối anh em mình.

Kinh Thánh phán rằng chúng ta phải tùng phục lẫn nhau; phải nhún nhường đối với nhau. Chúng ta phải tôn trọng quí mến lẫn nhau, phải đặt người khác trước rồi mới đến mình sau.

Suốt sáu năm cuối cùng của đời mình, nhạc mẫu tôi phải sống trên chiếc xe lăn tay do hậu quả của chứng tai biến mạch máu não. Nhạc phụ tôi, tiến sĩ L. Nelson Bell vốn là một lực sĩ rất tích cực, cũng là y sĩ, giáo sĩ và nhà văn (vào năm cuối cùng đời mình, ông cũng phục vụ với tư cách chủ tọa Giáo hội Trưởng lão miền Nam trước khi Giáo hội ấy thống nhất), đã hoàn toàn dành thì giờ chăm sóc bà bằng tình yêu thương. Một hôm, ông đã nói với nhà tôi: “Con biết không, đó là những ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời của cha”. Và những ai trong chúng tôi đã được thấy ông chăm sóc nhạc mẫu tôi như thế nào, thì mới biết câu nói ấy có ý nghĩa gì.

Là Cơ Đốc nhân, chúng ta phải chia xẻ gánh nặng cho nhau. Có những gánh nặng mà mỗi người phải tự chịu đựng vì không ai làm hộ cho mình được, và nếu bỏ quên thì sẽ không ai gánh cho cả. Có gánh nặng của lòng chân thật – của sự vâng giữ Lời Chúa – của việc giáo dục con cái – của sự săn sóc người vợ. Trong tất cả những trường hợp đó, cá nhân phải chịu đựng gánh nặng của chính mình. Nhưng còn có những gánh nặng khác mà các bạn ta có thể giúp chúng ta chịu đựng, như buồn rầu, rủi ro, thử thách, cô đơn, những lo lắng về gia đình, những khó khăn về tâm linh và những trách nhiệm công vụ.

Kinh Thánh phán, là Cơ Đốc nhân chúng ta phải rộng lòng đối với nhau. Thượng Đế phán rằng nhiệm vụ người Cơ Đốc là phải săn sóc những người góa phụ và kẻ cô nhi, và phải giúp đỡ kẻ nghèo trong xã hội Cơ Đốc. Kinh Thánh phán: “Hãy góp phần giải quyết những nhu cầu của các thánh đồ… hãy thực hành lòng hiếu khách… tiếp đón người lạ… an ủi người sầu muộn… đừng quên chiêu đãi những khách lạ”. Và Chúa Giê-xu đã phán: “Các con tiếp đãi anh em ta tức là tiếp đãi ta… Người cho có phúc hơn kẻ nhận… Thượng Đế yêu thương kẻ vui lòng dâng hiến”. Tất cả những điều này là những bổn phận xã hội của chúng ta đối với nhau trong tư cách Cơ Đốc nhân.

Hành động hòa nhã.

Sau hết, những người Cơ Đốc phải là người hòa nhã, và đây là một trong những đức tính Cơ Đốc khó khăn nhất! Chính năng lực của sự xác tín của chúng ta đôi khi khiến chúng ta cho rằng mình đúng và kẻ khác là sai. Điều này tốt đẹp nếu các định kiến đó căn cứ trên những lời “Ngươi phải” và “Ngươi chớ” của Kinh Thánh hơn là căn cứ vào những ý kiến riêng của chúng ta. Tình trạng nhiều hệ phái khác nhau thường đối với nhau trong Hội thánh đã làm nổi bật cái xu hướng ghê gớm của con người là kết hợp thành nhóm nhỏ, những nhóm này xây dựng trên những định kiến sâu đậm về các vấn đề nhỏ nhặt, và mỗi nhóm cứ khăng khăng rằng chỉ có họ mới có câu trả lời đúng.

Như cố Tấn sĩ Harry Ironside đã có lần nói: “Hãy coi chừng kẻo chúng ta bị sai lầm lấy thành kiến làm định kiến”.

Chắc chắn chúng ta phải phàn nàn về sự hung dữ, độc ác, bất lương, nhưng sự dung thứ đáng khen của chúng ta đối với tội lỗi nhiều khi trở thành sự dung túng đáng chê trách đối với người bị vấp phạm. Chúa Giê-xu ghét tội lỗi nhưng yêu thương tội nhân.

Tôi đã buồn cười và kinh ngạc khi nghe một người có quá trình tôn giáo đáng kể, cách đây không lâu tuyên bố trên truyền hình rằng: “Bạn không thể nào buộc Chúa Giê-xu kết bạn với những người khả nghi hay với những kẻ mà ý nghĩ và thái độ căn bản trái với những gì mà Chúa Giê-xu đã biết là đáng trọng và đúng đắn!”

Một người như thế phải biết rằng Chúa Giê-xu đã không sợ hãi khi kết hợp với bất cứ ai! Một trong những điều mà các thầy dạy luật và thầy Biệt-lập đã phẩm bình Chúa Giê-xu gắt gao là thiện ý của Ngài. Ngài giúp đỡ và trò chuyện, trao đổi ý kiến với bất cứ ai, dù họ là người thu thuế, là kẻ trộm cắp, giáo sư thông thái hay gái giang hồ, giàu hoặc nghèo! Ngay cả các môn đồ của Ngài cũng từng gièm pha số người tiếp xúc với Ngài nơi công cộng, nhưng điều này không làm giảm bớt tình thương của Chúa Giê-xu đối với tất cả những thành phần nhân loại nghèo nàn, đui mù đang vật lộn với cuộc sống.

Chúa Giê-xu đã có tinh thần cởi mở và bao dung chưa từng có ở thế gian này. Sự xác tín nội tâm của Ngài quá mạnh mẽ, quá cương quyết, quá vững vàng nên Ngài có thể hòa mình với bất cứ nhóm người nào, Ngài tin chắc rằng mình sẽ không bị xấu lây. Chính sự sợ hãi đã làm cho chúng ta không muốn nghe quan điểm của người khác, e rằng ý kiến của chính chúng ta bị đả kích chăng. Chúa Giê-xu không có sự sợ hãi đó, không có quan điểm ti tiện như vậy, không cần phải chống đỡ để tự bảo vệ. Ngài đã biết sự khác nhau giữa lòng nhân hậu và sự hòa giải và chúng ta nên học tập ở Ngài. Ngài đã nêu cho chúng ta tấm gương cao cả và sáng chói của chân lý phối hợp với lòng thương xót đời đời, và trong lúc gần lên trời Ngài đã phán: “Hãy đi và làm như vậy” (LuLc 10:37).

Đó chỉ mới là đôi điều trong mấy chục điều được kể là những bổn phận xã hội của người Cơ Đốc. Chính Cơ Đốc nhân không thể rút lui và sống như một ẩn sĩ cô độc. Cơ Đốc nhân là một thành phần của xã hội. Do đó những lời dạy dỗ của Chúa Giê-xu chứa đựng đầy đủ thái độ của chúng ta đối với đồng loại.

Hãy nghiên cứu Kinh Thánh, đọc Kinh Thánh và sống theo Kinh Thánh. Có thế, bạn mới chứng minh quyền năng biến đổi của Chúa Cứu Thế trong bạn cho thế giới đầy rối loạn này.