Header Background Image

Chương 4
Nền Tảng

Nhưng nền móng của người công chính còn đời đời.

Châm Ngôn 10:25

Nếu bạn tin những gì bạn thích và không tin những gì bạn không thích trong Tin lành thì đó không phải là bạn tin Tin lành mà bạn tin chính bản thân mình.

ST. AUGUSTINE OF HIPPO

Để tôi nói lại ba khía cạnh của sứ điệp trong sách này: trước hết nói về nền tảng của chúng ta, thứ hai nói về điều gì gắn kết cuộc đời chúng ta với nhau, và thứ ba là tiêu biểu cho việc xây dựng cuộc đời chúng ta. Những khía cạnh này sẽ là trọng tâm của phần thảo luận trong phần còn lại của sách này.

Nền tảng rất quan trọng để chấn chỉnh mối quan hệ với Chúa. Nếu bạn là một tín hữu lâu năm, tôi hết sức đề nghị bạn không nên đọc lướt qua phần trình bày sau đây. Nó rất ích lợi, không chỉ làm vững vàng nền tảng của bạn, nhưng cũng giúp những người mà bạn đang dẫn dắt hay ảnh hưởng họ bước vào mối quan hệ với Đấng Tạo Hóa.

Chúng ta được dạy:

Như có chép: “Chẳng có ai công chính cả, dù một người cũng không. Chẳng có ai hiểu biết. Chẳng có ai tìm kiếm Đức Chúa Trời; Tất cả đều lầm lạc, đều trở thành vô ích; Chẳng ai làm điều lành, không được lấy một người.”

(Rô-ma 3:10-12)

Chẳng có ai công chính (tốt đẹp) cả, dù một người cũng không. Ngoài Chúa Giê-su ra, không có con người nào đã từng sống hay sẽ sống mà liên tục làm điều tốt đẹp theo đánh giá của Đức Chúa Trời. Lý do là thế này: mỗi người được sinh ra đều là nô lệ. Đúng vậy, bạn và tôi được sinh ra đã là nô lệ rồi. Bạn sẽ hỏi, “Nô lệ cho điều gì?”. Cho tội lỗi. Phao-lô viết cho những người đã được tự do, “Trước kia anh chị em là nô lệ cho tội lỗi” (Rô-ma 6:17).

A-đam và Ê-va chết lúc họ không vâng lời Chúa. Chúa đã cảnh báo về số phận này trước khi họ ăn trái cấm. Tuy nhiên, nhiều năm về sau họ mới kinh nghiệm sự chết thể xác.

Điều này dấy lên câu hỏi, A-đam và Ê-va chết vào ngày họ ăn trái cấm như thế nào? Sự chết xuất hiện ngay trong bản chất cốt lõi của họ – tâm linh. Họ bị phân cách khỏi Đức Chúa Trời, Đấng ban sự sống, và bây giờ họ có các thuộc tính trái ngược với thuộc tính của Chúa. Hậu quả là con cháu của họ được sinh ra đều mang bản chất bẩm sinh tương tự, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác cho đến ngày nay. Sáng Thế 5:3 khẳng định thực tế này: “A-đam được một trăm ba mươi tuổi, sanh một con trai giống như hình tượng mình.” (BTT)

Bây giờ con người không có khả năng để biết và làm điều lành; cái la bàn đạo đức bên trong họ đã bị nhiễu. Rốt lại chỉ ảnh hưởng của Chúa trên đất mới lèo lái con người hướng về điều nào thật sự là tốt đẹp và ngay thẳng, vì bây giờ con người đã bị tội lỗi cai trị. Không có sự hướng dẫn của Chúa, tốt và xấu đều bị bóp méo. Tà linh và là kẻ gây ảnh hưởng nhiều đến con người chính là kẻ đã ám con rắn – satan, kẻ nổi loạn.

Quả đất được Chúa giao cho con người. Ngài đặt họ để cai quản, nhưng con người đã trao quyền này cho satan. Hàng ngàn năm sau, ma quỷ đã đem Chúa Giê-su lên núi cao, chỉ cho thấy các nước thế gian và nói mạnh miệng,

“Ta sẽ cho ông tất cả quyền uy và vinh quang của các vương quốc ấy, vì tất cả đã giao cho ta và ta muốn cho ai tuỳ ý”

(Luca 4:6)

Satan có thể nói những lời như thế vì quyền cai trị này đã được giao cho nó ở vườn Ê-đen.

Đức Chúa Trời không thể đến trên đất trong hình thể Thần thánh để giải cứu con người vì quả đất này trước đó đã được giao cho con người rồi. Con người đã từ bỏ thẩm quyền, nên chỉ có con người mới có thể lấy lại quyền này. Đức Chúa Trời đã lên một kế hoạch trước khi A-đam phạm tội, vì Ngài thấy trước sự chọn lựa của A-đam từ trước buổi sáng thế. Ngài vạch ra chiến lược để đến quả đất như một Con Người và mua lại sự tự do khỏi nô lệ cho con người. Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài, là Chúa Cứu Thế Giê-su – sinh bởi người nữ, khiến Ngài 100% là con người, nhưng lại được thụ thai bởi Thánh Linh nên Ngài 100% là Đức Chúa Trời. Vì thế, Chúa Giê-su được tự do khỏi sự rủa sả của tội lỗi mà bạn và tôi sinh ra phải gánh chịu.

Chúa Giê-su đã sống một cuộc đời hoàn hảo trên đất. Ngài không phạm bất kỳ một hành động bất tuân nào. Là con người vô tội duy nhất đã từng sống, Ngài phó sự sống để giải phóng con người. Trên thập tự giá Ngài đã mang hình phạt của mỗi người nam, người nữ đã từng sống, hiện sống và sẽ sống trong tương lai. Ngài đã đổ huyết báu của Ngài như cái giá để giải phóng chúng ta khỏi sự nô lệ.

Ngài chịu chết và chịu chôn. Vì Ngài sống cuộc đời hoàn hảo trước mặt Đức Chúa Trời, nên Thánh Linh đã làm cho Ngài sống lại từ kẻ chết sau ba ngày. Hiện Ngài được ngồi bên phải Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng đã tuyên bố lời này:

Vì nếu miệng ngươi xưng nhận Đức Giê-su là Chúa và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ chết sống lại thì ngươi sẽ được cứu; Vì tin trong lòng thì được sự công chính, và xưng nhận nơi miệng thì được sự cứu rỗi.

(Rô-ma 10:9-10)

Giây phút chúng ta tiếp nhận Chúa Cứu Thế Giê-su làm Chúa, một phép lạ diệu kỳ xảy ra. Bản chất tội lỗi và sự chết ngay lập tức biến mất, và một con người mới được sinh ra, được tạo dựng theo chính ảnh tượng của Chúa Giê-su. Sự tái sinh này liên hệ đến tâm linh chúng ta (con người thật của chúng ta), chứ không phải thân thể vật lý. Thân thể chúng ta vẫn còn hư hoại và một ngày nó sẽ chết đi. Sự sống mới đến hoàn toàn nhờ tặng phẩm của ân sủng Chúa, và việc này hoàn toàn không dính dấp gì đến hành vi tốt đẹp, công trạng hay công đức mà chúng ta đã làm. Chấm hết.

Điều quan trọng cần chỉ ra rằng câu Kinh Thánh trong sách Rô-ma đã trích ở trên cho biết bạn phải xưng nhận Giê-su là Chúa, chứ không xưng Giê-su là Đấng Cứu Độ. Đây là một sai lầm cơ bản thường thấy ở giáo hội Tây phương. Chữ chúa tiếng Hy Lạp là Kurios, nghĩa là “chúa, chủ, người có thẩm quyền tối thượng.”

Chỉ xưng nhận Giê-su là Đấng Cứu Độ thôi không đem đến sự tự do và sự sống mới. Tôi nhận thấy đây là lời tuyên bố hơi thẳng, đi ngược lại với cách mà người ta kêu gọi tội nhân tin Chúa, nhưng nó lại đúng Kinh Thánh.

Chữ Đấng Cứu Độ được tìm thấy 36 lần trong Kinh Thánh. Chữ Chúa xuất hiện hơn 7800 lần. Bạn nghĩ Đức Chúa Trời nhấn mạnh chỗ nào? Chúa công bố địa vị Ngài có trong cuộc đời chúng ta, còn Đấng Cứu Độ mô tả công việc Ngài đã làm cho chúng ta. Chúng ta không thể hưởng lợi ích của công việc của Ngài trừ khi chúng ta vâng phục địa vị là Chúa và Vua của Ngài.

Chúng ta sinh ra đã là nô lệ rồi. Nói đơn giản là tội lỗi kiểm soát chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta được tạo dựng có ý chí tự do, vì thế, chúng ta phải đưa ra một quyết định dứt khoát và tuyên bố là chúng ta đổi chủ. Sự cứu rỗi đã được cung ứng cho mọi người, nhưng từng cá nhân chúng ta phải chọn chấp nhận ơn ấy theo điều kiện của Đức Chúa Trời.

Trại Tù Trên Đảo

Tôi sẽ dùng một câu chuyện giả tưởng để giải thích chân lí này.

Trên một hòn đảo nọ, toàn bộ gia đình của bạn đang ở trong trại tù của một lãnh chúa gian ác. Vùng đất này từ đầu được một vị vua tốt bụng từ một đất nước xa xôi tặng cho ông nội của bạn. Tuy nhiên, ông của bạn đã mắc một sai lầm trầm trọng, ông đã không canh giữ nó. Vị lãnh chúa gian ác này và bè lũ nổi loạn của hắn đã lẻn vào và chiếm lấy vùng đất này, bắt ông của bạn và toàn bộ con cháu ông làm nô lệ. Vị lãnh chúa gian ác và đội quân của hắn đã xây các trại tù, bỏ tù toàn bộ gia đình của bạn.

Cuộc sống trên hòn đảo dần dần chịu ảnh hưởng bởi bản chất của vị lãnh chúa gian ác và bè lũ của hắn, nên bị hư hoại và suy đồi hoàn toàn. Hậu quả là vị vua tốt bụng kia đã hình phạt hòn đảo. Tuy nhiên, vì vua yêu thương gia đình bạn, nên trước khi hủy diệt đảo, vua đến và chiến đấu chống lại quân đội của vị lãnh chúa gian ác đó và đánh bại chúng.

Vua mở các cửa tù và tuyên bố, “Bây giờ tất cả tù nhân được tự do. Các ngươi có thể ra khỏi trại tù nếu các ngươi không muốn vị lãnh chúa gian ác kia cai trị và hãy trung thành với ta.”

Nhờ lòng nhân từ của vị vua mà gia đình bạn được tự do như mong đợi. Tuy nhiên, vị vua tốt bụng kia sẽ không ép bạn đi theo ông. Mỗi tù nhân phải tự động đi. (Nếu vua yêu cầu đi theo ông, mà không cho mỗi tù nhân chọn lựa thì đó cũng chỉ là một hình thức chuyên chế khác mà thôi.) Nếu bạn quyết định chấp nhận tự do, chọn lựa đó đòi hỏi bạn bước ra khỏi phòng giam của mình, đi theo vua tới con thuyền của ông, chèo thuyền trở lại đất nước của ông, trở thành một công dân của ông và sống theo luật pháp trong đất nước tuyệt vời của ông ta. Cơ hội được đặt trước mặt bạn, nhưng bạn phải đồng ý với điều kiện của vua.

Vị vua tốt bụng đó được xem là người cứu tinh của gia đình bạn. Tuy nhiên, để được lợi từ công tác cứu tinh của ông thì mỗi thành viên trong gia đình phải đồng ý đầu phục ông hết lòng, bao gồm cả việc đầu phục các luật lệ ông dùng để trị vì. Không có tù nhân nào trong gia đình bạn chỉ đón nhận sự giải cứu của vua khỏi trên đảo mà không đầu phục quyền làm lãnh chúa của ông.

Nếu bạn chọn không đi theo vị vua tốt bụng này, thì bạn sẽ ở nguyên chỗ cũ. Tuy nhiên, các tàu chiến của vua sẽ đóng quân ngoài khơi, sẵn sàng thả bom và tiêu diệt hòn đảo đáng bị trừng phạt đó một khi ông rời khỏi đảo. Người nào trong gia đình bạn không chịu ở dưới quyền làm lãnh chúa của vua tốt bụng này sẽ chịu chung số phận như vị lãnh chúa gian ác và bè lũ của ông, dù vị vua này đã chiến đấu để giải phóng tất cả các bạn và đã mở các cửa tù rồi.

Hãy nghe tôi đi, hỡi độc giả. Đức Chúa Trời không bao giờ tạo dựng hỏa ngục cho bạn hay cho bất cứ người nào. Ngài tạo dựng nó cho satan và bè lũ gian ác của nó. Chúa Giê-su sẽ nói với những ai không đầu phục quyền tể trị của Ngài vào Ngày Phán Xét:

“Bấy giờ Ngài phán với những người ở bên trái: ‘Hỡi những kẻ bị rủa sả, hãy lui ra khỏi Ta mà vào lửa đời đời đã sắm sẵn cho quỷ vương và quỷ sứ nó.”

(Ma-thi-ơ 25:41)

Hỏa ngục là một nơi có thật. Chúa Giê-su thường nói về hỏa ngục hơn là thiên đàng. Ngài không xem việc nói đến hỏa ngục – trong đó có sự thống khổ cũng như việc nó còn đến đời đời kiếp kiếp – là không có lòng thương xót. Nó là chỗ ở đời đời cho kẻ chết mà khước từ sự cai trị yêu thương của Ngài.

Theo Chúa Giê-su nơi hình phạt và đau đớn cùng cực này không được chuẩn bị cho con người, nhưng buồn thay, do sự bất tuân của mình mà tổ phụ chúng ta là A-đam đã kéo chúng ta vào hình phạt. Bây giờ chúng ta cùng chung số phận với satan trừ khi chúng ta “đổi chủ.” Dù Chúa Giê-su đã giải cứu tất cả mọi người khỏi cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời, nhưng nhiều người vẫn sẽ bị phán xét cùng với satan, vì họ vẫn còn bản chất của nó. Về cơ bản họ chọn ở lại trên đảo.

Bạn sẽ hỏi, “Sao Chúa không rủ lòng thương xót và cho phép con người vào vương quốc của Ngài như tình trạng hiện tại của họ?” Những ai không phục mình dưới quyền làm chủ của Chúa Giê-su là vẫn còn có bản chất thuộc linh hư hoại và gian ác. Khi họ lìa cõi đời này, họ vẫn còn bản chất đó mãi mãi. Nếu cho phép họ vào vương quốc đời đời của Chúa, họ sẽ làm ô uế và gây nguy hại cho nhiều người vô tội.

Vì lý do này mà Đức Chúa Trời đã đuổi A-đam và Ê-va ra khỏi cây sự sống trong vườn.

CHÚA, Đức Chúa Trời phán: “Nầy, loài người đã trở nên một bậc giống như chúng ta, biết phân biệt thiện ác, bây giờ coi chừng nó cũng đưa tay ra hái trái cây sự sống mà ăn và sống mãi mãi!” Vì thế, CHÚA, Đức Chúa Trời đuổi A-đam ra khỏi vườn Ê-đen để canh tác đất đai vì loài người từ đó mà ra.

(Sáng Thế 3:22-23)

Tình yêu thương của Chúa bảo vệ chúng ta khỏi việc khư khư giữ mãi bản chất sự chết của chúng ta.

Quyền Làm Chúa

Vì giáo hội Tây phương nhấn mạnh công việc Chúa Giê-su đã làm cho chúng ta với tư cách Đấng Cứu Độ hơn là địa vị làm Chúa của Ngài, nên việc thiếu đầu phục địa vị thẩm quyền của Ngài đã tạo ra một khuyết điểm tai hại trong nền tảng thuộc linh của chúng ta. Hãy nghe lời của Phao-lô:

Vậy, vì anh chị em đã tiếp nhận Chúa Cứu Thế Giê-su là Chúa, hãy bước đi trong Ngài, hãy đâm rễ và xây nền trong Ngài, tăng cường đức tin như anh chị em đã được dạy dỗ, và chan chứa lời cảm tạ.

(Cô-lô-se 2:6-7)

Phao-lô không nói, “Vì anh chị em đã tiếp nhận Chúa Cứu Thế Giê-su là Đấng Cứu Độ.” Cuộc đời chúng ta phải thuận phục và xây dựng trên vị trí làm Chúa của Ngài, không phải trên công tác của Ngài với tư cách Đấng Cứu Độ. Nói cách khác, đây là điều chúng ta đầu phục Ngài là Vua độc tôn của chúng ta, và sau đó chúng ta được lợi từ sự cứu rỗi của Ngài. Điều này diễn ra trong thực tế nhờ chúng ta tuân giữ Lời Ngài, sự khôn ngoan, lời khuyên, mạng lệnh, sự sửa trị và sự dạy dỗ của Ngài, dù chúng ta thấy có lý hay không. Chúng ta không còn nuôi mình từ “thước đo” đánh giá của chúng ta về điều đúng hay sai mà chúng ta sống trong Ngài, sự sống của Ngài thành sự sống chúng ta.

Hãy xem xét điều này. Hơn ba thập kỷ kết hôn với Lisa, tôi đã được lợi vì sống cùng một người đầu bếp tuyệt vời. Lisa rất tài trong việc tạo ra các bữa cơm dành cho người sành ăn. Tôi có nhiều bạn bè, họ hỏi liệu cô có dạy cho vợ của họ cách làm nước sốt lá hung, nước chấm xà lách và các món ngon khác không.

Đôi khi tôi gọi Lisa là “đầu bếp sành ăn bé nhỏ” của tôi. Tôi có gọi cô ấy như thế độ khoảng chục lần trong những năm lấy nhau, nhưng nói cho chính xác hơn thì trong ba mươi năm qua tôi gọi cô ấy là vợ tôi hàng ngàn lần. Tại sao? Bởi vì điều đó tuyên bố địa vị cô nắm giữ trong cuộc đời tôi. Còn cái tên kia chỉ gợi cho thấy món lợi mà tôi nhận được từ cô ấy, là vợ của tôi.

Lisa nấu ăn cho tôi không có nghĩa cô ấy thuộc về tôi. Khi còn độc thân, trong một lần sinh nhật cô ấy đã nấu cho tôi một bữa ra trò. Bữa ăn đó không cho chúng tôi mối quan hệ lâu dài. Chính giao ước tôi thực hiện, chấm dứt mối quan hệ với tất cả những cô gái khác và dâng trọn lòng tôi cho cô ấy như một người chồng, mới làm vững mạnh mối quan hệ hôn nhân của chúng tôi.

Mối quan hệ của chúng ta với Chúa Giê-su giống như vậy. Để nhận công tác cứu chuộc của Ngài, chúng ta phải đầu phục quyền làm Chúa, quyền sở hữu và quyền cai trị của Ngài. Chúng ta phó dâng hoàn toàn đời sống mình bởi vì chúng ta tin quyết về sự lãnh đạo hoàn hảo của Ngài, về bản tính và tình yêu của Ngài vì Ngài biết điều tốt nhất cho chúng ta. Dù Ngài rất muốn chúng ta được tự do và dù yêu thương chúng ta cách trọn vẹn, nhưng Ngài cũng là Vua của các vua, Chúa của các chúa và Ngài sẽ không bước vào đời sống chúng ta với tư cách là một nhân vật thứ yếu.

Tôi đã chứng kiến các mục sư trong các hội thánh tại Mỹ và Tây phương kêu gọi tội nhân tin Chúa để được cứu rỗi mà không hề nói đến quyền làm Chúa. Các mục sư thường nói, “Tất cả những gì bạn cần làm là xưng nhận Giê-su là Cứu Chúa và bạn sẽ trở thành con cái của Đức Chúa Trời,” hoặc “Sao bạn không để Chúa Giê-su làm Cứu Chúa của bạn hôm nay?” Hoặc giả, “Nào chúng ta hãy cầu nguyện thế này: Lạy Chúa Giê-su, xin hãy bước vào lòng con và cứu con ngày hôm nay. Cảm ơn Chúa vì khiến con nên con cái của Đức Chúa Trời. Amen.” Tất cả lời mời gọi gia nhập vào gia đình của Chúa không hề có một chữ nào nói về việc từ bỏ thế gian và lối sống riêng để bước theo Ngài.

Sứ điệp như thế nghe hay ho và phù hợp với một vài câu Kinh Thánh rời rạc trong Tân Ước. Tuy nhiên, nó có phù hợp với toàn bộ sự dạy dỗ của Tân Ước không? Đó có phải sự khôn ngoan của Chúa không? Hay có phải chúng ta đã giảm bớt và chỉnh sửa sứ điệp cứu rỗi thật để sao cho nó nghe hay ho và hấp dẫn với những mong muốn của tội nhân? Chúng ta có đang nuôi từ “thước đo” đánh giá của riêng mình không?

Tự Bỏ Mình Đi

Nào ta hãy nhìn vào sứ điệp của Chúa. Chúa Giê-su nói rõ với đoàn dân đông:

“Nếu ai muốn theo làm môn đệ Ta phải từ bỏ bản thân mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. Vì người nào muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, nhưng ai vì Ta và Phúc Âm mà mất mạng sẽ cứu được mạng mình.”

(Mác 8:34-35)

Chúng ta phải tự bỏ mình nếu muốn đi theo Ngài. Chấm hết. Điều này có nghĩa gì? Nói đơn giản là bạn không thể phục vụ hai chủ, vì bạn chỉ có thể trung thành với một người nếu mỗi chủ đều đòi hỏi hành động hay đáp ứng khác nhau. Khi xác thịt chúng ta, vẫn chưa được cứu, muốn hướng này còn Lời Chúa chỉ đạo chúng ta đi hướng khác, nếu chúng ta chưa quyết định theo Chúa Giê-su như là Đấng Chủ Tể của chúng ta, thì chúng ta rất dễ chọn con đường độc lập, đồng thời chúng ta vẫn trông mong và xưng nhận Ngài là Cứu Chúa? Có thể nào chúng ta bị sai lạc mà vẫn còn giữ vững niềm tin như thế không?

Có lẽ đây là lý do Chúa Giê-su nói, “Tại sao các con gọi Ta là: ‘Chúa, Chúa!’ mà không thực hành lời Ta dạy?” (Luca 6:46). Nói cách khác, Chúa trở thành một danh trống rỗng, vô nghĩa. Nếu ta nói “Chúa” mà thật sự không có ý như thế, thì Chúa Giê-su thà muốn chúng ta gọi Ngài là “Giáo sư vĩ đại” hơn. Ít ra thì chúng ta nhận được ích lợi từ lời dạy dỗ của Ngài mà không bị lừa dối cho rằng chúng ta thuộc về Ngài trong khi thực tế thì không.

Theo Mác 8:34-35 và nhiều câu Kinh Thánh khác trong Tân Ước, việc tự bỏ mình không phải là việc muốn hay không muốn khi chọn bước theo Ngài ra khỏi “ốc đảo thế gian” này. Nó là điều bắt buộc để được cứu khỏi cơn thịnh nộ hầu đến. Tôi phát hiện ra đây là một khái niệm mà người Tây phương thấy khó chấp nhận. Tôi tin lý do có chuyện này là vì chúng ta là một dân tộc cố gắng hiểu các nguyên tắc Thần Chủ bằng lối tư duy dân chủ. Dân chủ đã mang lại hiệu quả ở Mỹ và các nước Phương Tây, nhưng nếu chúng ta cố gắng liên hệ với Đức Chúa Trời bằng lối tư duy dân chủ, thì chúng ta sẽ không thể kết nối với Ngài. Ngài là Vua đích thật, không phải là vua bù nhìn như vua thời xưa.

Dân chủ được định nghĩa là “dân cai trị, một hình thức chính thể trong đó quyền lực tối cao được giao cho người dân, quyền lực đó do dân trực tiếp thi hành hay thông qua các đại diện được dân chọn.” Đây là lối tư duy mà chúng ta được giáo dục tại Mỹ và các nước Tây Phương. Nó đã được lập trình trong suy nghĩ và lý luận của chúng ta. Hậu quả là nếu chúng ta không thích một điều gì đó, chúng ta tin là chúng ta có thể thách thức hay thay đổi nó bởi vì chúng ta có quyền cá nhân “bất khả xâm phạm” và tự do ngôn luận để bày tỏ quan điểm của mình.

Để tôi tái nhấn mạnh lần nữa. Hình thức cai trị này đã kết quả tại Mỹ bởi vì đó là một hệ thống được dự trù cho những con người sống trong một xã hội đa nguyên nhưng những quan niệm này không thể mang vào Nước Chúa được. Điều này khiến cho chúng ta là những người Tây phương thấy khó chịu, nhưng Đức Chúa Trời là Đấng cai trị tuyệt đối – may mắn cho chúng ta, Ngài là Đấng nhân từ, nhưng Ngài phải có tiếng nói quyết định trong mọi khía cạnh của đời sống. Nếu chúng ta đem lối tư duy dân chủ vào mối quan hệ của chúng ta với Chúa, chúng ta sẽ có một mối quan hệ giả tạo.

Đời sẽ đổi thay khi sống dưới vị Vua đích thực. Xét theo ý nghĩa thẩm quyền tối cao thì chúa và vua đều đồng nghĩa. Nếu chúng ta muốn theo Chúa thật sự, chúng ta không thể dùng lối lý luận theo kiểu dân chủ trong cách chúng ta đáp ứng với quyền lãnh đạo của Ngài. Làm thế chẳng khác gì việc A-đam và Ê-va chọn cây tri thức biết thiện và ác. Con người vẫn cầm lái và quyết định điều nào mình nghĩ là tốt nhất cho cuộc đời mình.

Vác Thập Tự Giá

Bước kế tiếp Chúa Giê-su tuyên bố chúng ta phải vác thập tự giá của chúng ta. Điều này ngụ ý cái gì? Không thể nào là tự bỏ mình đi nữa, vì sao Chúa Giê-su phải lặp lại không cần thiết như vậy? Chúng ta tìm thấy chìa khoá trong thư tín của Phao-lô gửi cho người Ga-la-ti, trong đó ông nói:

Tôi bị đóng đinh vào thập tự giá với Chúa Cứu Thế. Nay tôi sống, không còn là tôi nữa nhưng Chúa Cứu Thế sống trong tôi. Hiện nay, tôi sống trong thân xác, tức là sống trong đức tin nơi Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi và hiến chính mình Ngài vì tôi.

(Ga-la-ti 2:20)

Phao-lô không nói về sự đóng đinh thể xác, vì nếu thế thì ông không còn sống để viết thư tín này. Ông đang nói về quyết định của ông đi theo Chúa nhiều năm trước đây. Phao-lô đã vác thập tự giá mình. Bí quyết để làm được việc này được tìm thấy trong những lời của ông, “Nay tôi sống, không còn là tôi nữa nhưng Chúa Cứu Thế sống trong tôi.” Đây phải là lời tuyên bố của mỗi con cái thật của Chúa. Chúng ta không còn sống độc lập nữa, nuôi mình từ “thước đo” đánh giá riêng về điều nào là tốt và điều nào là xấu nữa. Không, bây giờ chúng ta sống trong Ngài, sự sống của chúng ta ra từ Ngài. Chúng ta phụ thuộc vào sự cung ứng của thập tự giá: tự do khỏi nô lệ để chúng ta sống cuộc đời vâng lời bởi sức Chúa.

Thập tự giá cung cấp một lối sống hoàn toàn mới. Phao-lô tuyên bố trong một thư tín khác, “Vậy, qua Báp-tem chúng ta được chôn với Ngài vào trong sự chết, cho nên cũng như Chúa Cứu Thế nhờ vinh quang của Cha được từ chết sống lại thì chúng ta cũng có thể sống trong đời sống mới thể ấy.” (Rô-ma 6:4). Đời sống mới này cho chúng ta khả năng để thoát khỏi lối sống bất lực trước đây. Quyền lực của tội lỗi trong chúng ta đã bị bẻ gãy, nhưng chúng ta phải chọn sống đời sống mới. Chúng ta chọn phó mình hoàn toàn cho ý muốn Ngài.

Phao-lô tiếp tục giải thích rõ điểm này: “Những người thuộc về Chúa Cứu Thế Giê-su đã đóng đinh bản tánh xác thịt cùng với tình dục và dục vọng mình vào thập tự giá” (Galati 5:24). Ông nói lại, “Còn về phần tôi, tôi không khoe khoang, ngoại trừ khoe về thập tự giá của Chúa Cứu Thế Giê-su chúng ta. Nhờ thập tự giá đó, thế gian đã bị đóng đinh đối với tôi và tôi đối với thế gian cũng vậy” (Galati 6:14). Thập tự giá giúp chúng ta sống tự do khỏi xác thịt tội lỗi và khỏi những ảnh hưởng mạnh mẽ của hệ thống thế gian.

Là một thanh niên, trước khi tôi gặp Chúa Giê-su, có những thói hư trong cuộc đời tôi mà tôi không thể bỏ được. Tôi hối hận về thói quen dâm dục, kiêu ngạo, gây hấn của mình, nhưng càng cố gắng tự giải thoát mình, tôi càng thất vọng. Tôi bị trói buộc trong vô vọng và phục dưới sự cai trị của tội lỗi. Tuy nhiên, khi tôi đã bị đóng đinh với Chúa Giê-su thì tôi bắt đầu sống tự do.

Chúng ta biết rằng con người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Ngài, để bản ngã (thân thể tội lỗi) bị tiêu diệt đi, và chúng ta sẽ không làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Vì người nào đã chết rồi thì được giải thoát khỏi quyền lực của tội lỗi.

(Rô-ma 6:6-7)

Tôi hy vọng bạn không đọc lướt qua phần này. Hãy uống lấy lời Chúa, vì Lời Chúa rất thật và có quyền năng để giải phóng bạn. Lẽ thật trở nên thú vị hơn. Đón nhận thập tự giá còn hơn là giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi mà còn cho chúng ta khả năng sống vâng lời Ngài. Chúng ta được biết, “Vì đối với những người hư mất, sứ điệp của thập tự giá là ngu dại nhưng đối với chúng ta, những người được cứu rỗi, thì đó là quyền năng của Đức Chúa Trời” (1Cô-rinh-tô 1:18). Điều mà trước đây khả năng riêng của chúng ta không làm được thì bây giờ chúng ta làm được: bước đi trong đường lối Ngài. Bây giờ chúng ta có thể bắt chước Chúa, đi theo Chúa Giê-su.

Tóm lại, không thể đi theo Chúa Giê-su nếu không từ bỏ mình (từ bỏ đường lối riêng và chấp nhận thẩm quyền tối thượng của Ngài) và vác thập tự giá (hợp tác với quyền năng của thập tự giá để tránh xa tội lỗi và hệ thống thế gian). Sự sống mà chúng ta hiện sống là bởi đức tin nơi quyền năng Ngài đang tác động trong và qua chúng ta. Chúng ta nhận lãnh từ nơi Ngài. Thật là gói cứu rỗi đầy vinh hiển mà Chúa đã cung ứng cho chúng ta!

Lời Cảnh Báo Nghiêm Trọng

Chúa Giê-su cảnh báo rằng sau khi Ngài thăng thiên người ta sẽ rao giảng và được nhiều người đón nhận một tin lành hứa hẹn một sự cứu rỗi mà không để Chúa Giê-su làm Chúa. Các sứ đồ nói cụ thể hơn và cho biết rằng chuyện này sẽ diễn ra khi càng gần tới thời điểm Chúa Giê-su tái lâm – nghĩa là trong thời đại chúng ta. Sứ điệp tà giáo và phổ biến này hạ thấp Chúa, xem đó chỉ là một tên gọi chứ không phải vị trí mà Chúa Giê-su có trong đời sống con người. Người ta sẽ gọi Ngài là Chúa nhưng không tự bỏ mình đi, vác thập tự giá mình mà theo Ngài. Hãy đọc kỹ những lời của Chúa Giê-su.

Không phải hễ ai nói với Ta: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ đều sẽ vào Nước Thiên Đàng đâu, nhưng chỉ những người làm theo ý muốn của Cha Ta ở trên trời.

(Ma-thi-ơ 7:21)

Chúa Giê-su nhận ra những người tuyên bố Ngài là Chúa, chứ không phải Mohamad, Joseph Smith, Phật tổ, thần Krishna, Khổng tử hay bất cứ tiên tri giả nào khác trong thời đại chúng ta. Những người này sẽ gọi Chúa Cứu Thế Giê-su là Chúa và họ nói vậy với cả lòng nhiệt huyết.

Tại sao Chúa Giê-su dùng từ Chúa hai lần trong câu này? Chúng ta hiểu rằng khi một từ hay cụm từ được lặp lại trong Kinh Thánh thì không phải là tình cờ. Tác giả đang chuyển tải sự nhấn mạnh. Tuy nhiên, trong những trường hợp như thế, sự lặp lại không chỉ để nhấn mạnh mà còn thể hiện cảm xúc mạnh. Ví dụ, trong Cựu Ước, khi Đa-vít nghe tin con trai ông bị quân đội của Giô-áp hành hình, ông phản ứng biểu lộ cảm xúc mãnh liệt: “Trong khi đó, vua trùm mặt, khóc than lớn tiếng: “Ôi, con ơi! Áp-sa-lôm, Áp-sa-lôm, con ơi, con ơi!” (2Sa-mu-ên 19:4). Tôi không nghĩ là Đa-vít đã nói hai lần từ, “con ơi.” Mà tác giả đã lặp lại những từ này hai lần để độc giả hiểu tiếng than khóc của Đa-vít thật xúc động làm sao.

Cùng một hình thức này xuất hiện trong sách Khải Huyền: “Tôi đang ngắm nhìn, chợt nghe một con đại bàng bay giữa trời rao lớn rằng: Khốn thay, khốn thay, khốn thay cho các dân cư trên mặt đất vì những tiếng kèn mà ba thiên sứ sắp thổi lên.” (Khải Huyền 8:13). Các bản dịch khác dịch thiên sứ “la lớn tiếng.” Một lần nữa, tác giả lặp lại từ khốn thay để nhấn mạnh cảm xúc mạnh liệt.

Tương tự, Chúa Giê-su chuyển tải tình cảm mạnh mẽ của những người này dành cho Ngài. Họ không chỉ đồng ý với lời dạy rằng Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời, mà họ còn đầy nhiệt huyết và đầy cảm xúc trong niềm tin của họ. Chúng ta đang nói về những người rất phấn khởi trở thành cơ đốc nhân, phần lớn là những người bộc lộ cảm xúc khi nói về đức tin của họ và tan vỡ trong suốt buổi thờ phượng. Họ không chỉ cảm nhận sâu sắc về chính nghĩa của Đấng Cứu Thế mà họ cũng tham gia phục vụ Ngài:

“Trong ngày Phán xét sẽ có nhiều người phân trần: ‘Thưa Chúa, chúng tôi đã giới thiệu Chúa cho nhiều người, đã dùng Danh Chúa để đuổi quỷ và làm nhiều phép lạ’.”

(Ma-thi-ơ 7:22-BDY)

Ở đây dùng Bản Diễn Ý vì nó chuyển tải ý niệm những người này phân trần. Họ có trực tiếp tham gia hay hỗ trợ công việc của hội thánh. Họ cũng bày tỏ niềm tin của mình về phúc âm. “Chúng tôi đã giới thiệu Chúa . . .” Họ là một phần trong công việc thay đổi cuộc sống người khác.

Bản dịch Kinh Thánh Diễn Ý này dịch nhiều người. Tuy nhiên, đa số bản dịch cũng dùng từ vô số người. Tiếng Hy Lạp là polus, được định nghĩa là “Nhiều về con số, về số lượng hay về chất lượng.” Thường từ này dùng theo nghĩa “đa số.” Trong bất cứ trường hợp nào, Chúa Giê-su không nói về một nhóm ít người mà nói về một nhóm đông người – thật ra, số đông này chiếm rất cao.

Nói tóm lại: Chúa Giê-su nói về những người tin lời dạy của các sách Phúc Âm. Họ gọi Ngài là Chúa, họ ngập tràn cảm xúc, họ rao giảng sứ điệp tin lành và năng nổ phục vụ Chúa. Chúng ta rất dễ cho rằng họ là cơ đốc nhân thật. Vậy thì yếu tố khác biệt ở đây là gì? Họ khác với các tín hữu thật như thế nào? Chúa Giê-su cho chúng ta biết:

“Nhưng Ta sẽ tuyên bố rõ ràng với họ, ‘Nầy những kẻ làm ác, hãy đi cho khuất mắt Ta!Ta chưa hề biết đến các ngươi.’”

(Ma-thi-ơ 7:23)

Câu chìa khoá là “làm ác.” Tiếng Hy Lạp là anomia. Từ điển Greek-English Lexicon of the New Testament của Thayer định nghĩa đó là tình trạng không có luật pháp, do thiếu hiểu biết hoặc do vi phạm luật pháp. Từ điển The Encyclopedia of Bible Words làm sáng tỏ thêm khi cho rằng anomia có thể phản ánh “hành động… vi phạm các nguyên tắc đạo đức của Chúa.” Nói đơn giản, một người vô luật pháp không tuân giữ thẩm quyền của Lời Chúa.

Những người này không phải thỉnh thoảng vấp ngã; mà họ có thói quen bỏ qua, xem thường hay không vâng theo Lời Chúa. Nếu thật sự được cứu bởi ân sủng, họ không chỉ ghét bỏ ý nghĩ muốn phạm tội mà còn chọn tránh xa tội lỗi. Họ sẽ đóng đinh xác thịt cùng với những dục vọng và ham muốn mà theo đuổi phẩm cách và kết quả tin kính.

Thật thú vị khi để ý rằng một ngày nào đó Chúa Giê-su sẽ tuyên bố với họ, “Ta không hề biết các ngươi.” Chữ biết trong tiếng Hy Lạp là ginosko, nghĩa là “biết thân mật.” Những người này chưa bao giờ có mối quan hệ thật với Chúa Giê-su. Dù họ gọi Ngài là Chủ và Chúa, đó chỉ là một danh hiệu, vì họ không làm theo những gì Ngài phán. Bằng cớ một người thật sự có mối quan hệ với Chúa là họ gìn giữ Lời Ngài:

Nhờ điều này chúng ta biết rằng mình đã biết Ngài: Ấy là chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài. Người nào nói: “Tôi biết Ngài”, nhưng không tuân giữ các điều răn của Ngài là người nói dối, chân lý không ở trong người đó.

(1 Giăng 2:3-4)

Đây cũng là ngụ ý của Gia-cô khi ông viết, “Anh hãy chỉ cho tôi đức tin không có hành động của anh, rồi tôi sẽ cho anh thấy đức tin bằng hành động của tôi” (Gia-cô 2:18). Những câu này cũng hoàn toàn phù hợp với cách mà Chúa Giê-su bắt đầu cuộc đàm đạo này: “Thế thì, các con nhận biết người ta là nhờ quả của họ” (Ma-thi-ơ 7:20). Những hành động Chúa Giê-su nói đến ở đây không phải công tác tôn giáo, làm chứng tin lành hay đi nhà thờ, vì những người quay lưng khỏi Chúa sẽ có những thói quen như thế.

Tim Keller bàn đến những lời này của Chúa Giê-su: Những lời này đang nói về một điều rất sâu sắc hơn. Những người này có đức tin lý trí, có đức tin mang tính cảm xúc và đức tin theo kiểu xã hội. Tất cả chúng ta đều muốn thế. Chúng ta muốn được kích thích suy nghĩ, muốn có cảm xúc can dự và muốn được lợi từ xã hội. Có thể được kích thích suy nghĩ, thỏa mãn cảm xúc và ích lợi xã hội mà không muốn có Đức Chúa Trời … bởi vì nếu bạn thật sự có Chúa trong đời, bạn phải từ bỏ ý chí riêng, và điều đó cho thấy sự khác biệt giữa người cố gắng lợi dụng Chúa và người nỗ lực phục vụ Chúa.

Lợi dụng Chúa là tìm kiếm Ngài vì mục đích có được lợi lộc từ Ngài, ngay cả chỉ để được lên thiên đàng. Phục vụ Chúa là hoàn toàn được thúc đẩy bởi tình yêu của chúng ta dành cho Ngài, và nếu chúng ta yêu Ngài, chúng ta sẽ tuân giữ lời Ngài.

Ngày nay, đa số xem một người gọi Giê-su là Chúa, tin những lời dạy của Ngài, rất hăng say tham gia và năng nổ làm công tác tôn giáo là con cái Chúa nhưng chúng ta thấy rõ từ những lời phán của Chúa Giê-su rằng những yếu tố này không phải là những yếu tố quyết định để xác định một tín hữu thật.

Để tôi nói như thế này. Chắc chắn bạn sẽ thấy những phẩm chất này trong một tín hữu thật; đúng vậy, là một tín hữu thật thì không thể thiếu những điều đó. Tuy nhiên, có những phẩm chất này không có nghĩa là người đó là con cái Chúa thật. Yếu tố quyết định là đây: họ có tự bỏ mình và mang lấy thập tự giá mà đi theo Ngài không? Thực ra là họ có vâng lời Ngài không?

Phần trình bày này là chủ đề kết thúc trong bài giảng Trên Núi nổi tiếng của Ngài. Để đúc kết những lời tỉnh thức của Ngài, Ngài kết luận:

“Vậy, ai nghe lời Ta dạy và làm theo, sẽ giống như một người khôn ngoan xây nhà mình trên nền đá. Khi mưa đổ xuống, nước lụt dâng lên, cuồng phong ập đến, nhà ấy không sụp đổ vì đã được xây trên nền đá. Còn ai nghe lời Ta dạy, nhưng không làm theo thì giống như một người ngu dại xây nhà mình trên cát. Khi mưa đổ xuống, nước lụt dâng lên, cuồng phong ập đến, thì nhà ấy sụp đổ, hư hại nặng nề.”

(Ma-thi-ơ 7:24-27)

Dụ ngôn này liên quan đến lời cảnh báo của Ngài về nhiều người không được vào thiên đàng, vì Ngài kết nối ý này khi nói từ “vậy.”

Nếu bạn xem xét hai nhóm người được xác định trong dụ ngôn này, ngoài mọi yếu tố khác thì chỉ có khác biệt rất nhỏ. Cả hai nhóm đều nghe lời Ngài, nhưng chỉ có nhóm đầu tiên là “làm theo.” Nhóm thứ hai “không làm theo.” Cả hai ngôi nhà được làm từ vật liệu như nhau – cùng sự dạy dỗ. Cả hai nhóm đều thờ phượng và phục vụ giống nhau. Sự khác biệt quan trọng là cái nền. Một nhà được lập trên quyền làm Chúa của Chúa Cứu Thế Giê-su. Còn nhà kia vẫn còn bám chặt vào sự đánh giá của riêng mình về điều nào là tốt và điều nào là xấu – tức cũng một thứ triết lí mà A-đam và Ê-va đã bám víu.

Thật ngạc nhiên khi biết rằng điều dại dột này vẫn còn lặp lại, từ thời vườn Ê-đen cho đến nay. Dù nó núp dưới vỏ bọc khác, nhưng bên trong thì vẫn như cũ. Một lần nữa, điều cốt lõi là : chúng ta cho rằng mình biết rõ mình sẽ sống thế nào hay chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời biết điều gì là tốt nhất?

0 Comments

Heads up! Your comment will be invisible to other guests and subscribers (except for replies), including you after a grace period.
Note